Tin tức quy hoạch
Điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2050: Định hướng phát triển hiệu quả
Ngày 05/10/2025, Chính phủ đã chính thức ban hành Nghị quyết số 306/NQ-CP, điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021–2030, tầm nhìn đến năm 2050. Nhằm xác định lại không gian phát triển quốc gia, nhấn mạnh vai trò vùng động lực, và huy động hiệu quả nguồn lực đất đai, hạ tầng và con người

Ngày 05/10/2025, Chính phủ đã chính thức ban hành Nghị quyết số 306/NQ-CP, điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Văn bản này xuất phát từ yêu cầu thực tế trong điều hành phát triển đất nước: nhiều quy hoạch cấp vùng, cấp tỉnh không còn tương thích với tình hình mới; các biến động kinh tế – xã hội, công nghệ, biến đổi khí hậu đòi hỏi mô hình phát triển quốc gia phải cập nhật, linh hoạt hơn.
Việc điều chỉnh quy hoạch nhằm xác định lại không gian phát triển quốc gia, nhấn mạnh vai trò vùng động lực, và huy động hiệu quả nguồn lực đất đai, hạ tầng và con người để đưa Việt Nam tiến nhanh, bền vững hơn trong thế kỷ XXI.
Một số mục tiêu chủ chốt của Nghị quyết 306 bao gồm:
Tăng trưởng GDP bình quân trên 8,0%/năm trong giai đoạn 2021 - 2030.
GDP bình quân đầu người sẽ đạt khoảng 8.500 USD theo giá hiện hành.
Cơ cấu kinh tế: dịch vụ chiếm trên 50 %, công nghiệp - xây dựng chiếm trên 40 %, nông - lâm - thủy sản dưới 10 %.
Tăng năng suất lao động xã hội bình quân, đặc biệt giai đoạn 2026 - 2030 đạt mức trên 8,5 %/năm.
Phát triển kinh tế số chiếm khoảng 30% GDP, đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia.
Quy mô dân số khoảng 105 triệu người; duy trì mức sinh thay thế (2,1 con/ phụ nữ).
Chỉ số phát triển con người (HDI) đặt mục tiêu khoảng 0,78.
Giáo dục đại học phấn đấu vào nhóm 10 hệ thống tốt nhất châu Á.
Y tế phát triển ngang tầm khu vực, môi trường văn hóa - xã hội bền vững, đảm bảo quốc phòng – an ninh.
Dù mục tiêu cụ thể đến năm 2050 chưa được Nghị quyết liệt kê chi tiết, định hướng phát triển dài hạn bao gồm:
Duy trì mô hình tăng trưởng xanh - số - sáng tạo, đưa Việt Nam trở thành quốc gia có thu nhập cao, công nghệ cao, đẳng cấp khu vực.
Tăng cường năng lực chống chịu biến động toàn cầu (biến đổi khí hậu, chuỗi cung ứng, số hóa).
Phát triển không gian quốc gia đồng bộ, giảm chênh lệch vùng miền, xây dựng các “đầu tàu” vùng có tính cạnh tranh quốc tế.
Nghị quyết 306 nêu rõ một số quan điểm cốt lõi:
Có tư duy chiến lược, tầm nhìn dài hạn, phát triển để củng cố ổn định, lấy đổi mới sáng tạo, khoa học – công nghệ, chuyển đổi số làm động lực.
Phát huy lợi thế vùng miền, xây dựng mô hình phát triển hài hòa giữa kinh tế - văn hóa - xã hội - môi trường - quốc phòng.
Xây dựng nền kinh tế tự chủ, mạnh mẽ hội nhập, nâng cao khả năng thích ứng và chống chịu trước biến động quốc tế.
Lấy con người làm trung tâm: chính sách hướng đến nâng cao chất lượng cuộc sống, phát huy năng lực cá nhân và xã hội.
Cải cách thể chế, thúc đẩy vai trò thị trường, môi trường đầu tư minh bạch, phát huy doanh nghiệp tư nhân là lực lượng chủ đạo.
Khơi dậy tinh thần khát vọng, tự cường dân tộc, coi văn hóa, bản sắc dân tộc là nền tảng nội sinh cho phát triển bền vững.
Xây dựng mạng lưới hạ tầng đa tầng: giao thông quốc gia (cao tốc, đường sắt, cảng biển, sân bay), hạ tầng số (trung tâm dữ liệu, mạng viễn thông), năng lượng (lưới điện, năng lượng tái tạo), thủy lợi, môi trường và hệ thống phòng chống thiên tai.
Tích hợp quy hoạch giao thông, đô thị và logistic để tăng tính kết nối vùng, nâng cao hiệu quả sử dụng đất và tài nguyên.
Chuyển hướng từ tăng trưởng mở rộng sang tăng trưởng dựa vào chất lượng, công nghệ, giá trị gia tăng cao.
Ưu tiên các ngành: công nghệ thông tin – truyền thông, công nghệ cao, năng lượng sạch, logistics, công nghiệp chế tạo, robot, AI, chế biến thực phẩm chất lượng cao.
Nghị quyết 306/NQ-CP đề xuất tổ chức không gian quốc gia thành 6 vùng kinh tế - xã hội. Mỗi vùng có vai trò, trọng tâm và cách phát triển riêng:
Vùng trung du & miền núi phía Bắc: gồm các tỉnh như Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang, Sơn La, Điện Biên… tập trung phát triển nông nghiệp đặc sản, du lịch sinh thái, khai thác tài nguyên bền vững.
Vùng đồng bằng sông Hồng: bao gồm Hà Nội, Hải Phòng, Hưng Yên, Bắc Ninh, Quảng Ninh… là trung tâm công nghiệp, tài chính, cảng biển, vận tải và đổi mới sáng tạo.
Vùng Bắc Trung Bộ: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Huế – phát triển công nghiệp nặng, lọc hóa dầu, cơ khí, kết nối ven biển.
Vùng duyên hải Nam Trung Bộ & Tây Nguyên: Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Gia Lai, Đắk Lắk, Khánh Hòa, Lâm Đồng - chú trọng năng lượng, du lịch biển, công nghiệp chế biến, phát triển đa dạng bền vững.
Vùng Đông Nam Bộ: TP. HCM, Đồng Nai, Tây Ninh – là vùng động lực kinh tế, tài chính, logistics, công nghiệp công nghệ cao.
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long: Cần Thơ, An Giang, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Cà Mau… – phát triển nông nghiệp công nghệ cao, logistics, thủy sản, du lịch sinh thái, đặc khu kinh tế biển như Phú Quốc.
Trong các vùng này, Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh được xác định là 2 cực tăng trưởng chính quốc gia. Đà Nẵng, Cần Thơ và các đô thị vùng cũng trở thành các hạt nhân vùng lan tỏa phát triển.
Xây dựng các hành lang Bắc – Nam, Đông – Tây và vành đai công nghiệp – đô thị ven biển để kết nối vùng, thuận lợi dòng chảy vốn, hàng hóa, lao động và công nghệ. Kết nối hiệu quả với cảng biển, sân bay, cửa khẩu quốc tế, tạo mạch phát triển liên vùng liên kết quốc tế.
Nghị quyết 306/NQ-CP định hướng phát triển đô thị theo mô hình đa trung tâm, kết nối liên vùng, hình thành chuỗi đô thị quốc gia trải dài Bắc – Trung – Nam.
Tăng tỷ lệ đô thị hóa lên trên 50% vào năm 2030.
Đô thị phát triển theo hướng xanh - thông minh - thích ứng biến đổi khí hậu, ứng dụng công nghệ số, năng lượng sạch và giao thông công cộng.
Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh giữ vai trò là hai đô thị trung tâm quốc gia; vùng đô thị như Đà Nẵng, Cần Thơ, Huế, Hải Phòng... trở thành các đô thị hạt nhân vùng hỗ trợ.
Sau khi Quốc hội phê duyệt, Chính phủ công bố công khai nội dung Quy hoạch điều chỉnh và yêu cầu các địa phương, ngành lập chương trình hành động, kế hoạch thực hiện.
Điều chỉnh quy hoạch cấp quốc gia, vùng, tỉnh, ngành để đảm bảo tính liên kết, đồng bộ trong hệ thống quy hoạch.
Xây dựng cơ chế đặc thù, ưu đãi cho các vùng động lực, đặc khu kinh tế, công nghệ cao để thu hút vốn, nhân lực, công nghệ.
Cân đối và huy động nguồn lực về: vốn nhà nước, vốn tư nhân, hợp tác công - tư, hợp tác quốc tế.
Ưu tiên bố trí vốn đầu tư cho hạ tầng giao thông, số, năng lượng, đô thị, cảng biển, sân bay.
Hỗ trợ địa phương khó khăn, vùng sâu vùng xa, dân tộc thiểu số bằng chính sách hỗ trợ đặc thù.
Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy hoạch, phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm.
Xây dựng và duy trì cơ sở dữ liệu quốc gia về quy hoạch để cập nhật, theo dõi tiến độ và minh bạch thông tin.
Rà soát đánh giá định kỳ, điều chỉnh linh hoạt khi cần thiết để đáp ứng thay đổi thực tiễn.
Thực hiện điều chỉnh quy hoạch giúp Việt Nam cập nhật hướng đi phù hợp với bối cảnh mới, không bị lạc hậu theo mô hình phát triển trước đây.
Tạo cơ sở pháp lý và định hướng rõ ràng để huy động đầu tư, phát huy tiềm năng vùng miền, giảm chênh lệch phát triển.
Đẩy mạnh chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo, phát triển kinh tế xanh — các xu hướng tất yếu của thế giới.
Nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam, thu hút vốn, nhân lực, công nghệ từ nước ngoài.
Khó khăn trong phối hợp liên vùng, vì nhiều dự án vượt địa giới hành chính tỉnh.
Nguồn lực tài chính – vốn đầu tư lớn, chưa chắc đảm bảo theo tiến độ.
Bất cập trong thể chế, chính sách đặc thù – cần cải cách mạnh mẽ.
Rủi ro thiên tai, biến đổi khí hậu, biến động kinh tế toàn cầu — cần thích ứng linh hoạt.
Nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng mô hình phát triển mới.
Nghị quyết 306/NQ-CP đánh dấu một bước chuyển mạnh mẽ trong chiến lược phát triển quốc gia, đưa Việt Nam hướng tới một tương lai bền vững, hiện đại và có khả năng cạnh tranh cao. Nếu được triển khai nghiêm túc, đồng bộ và linh hoạt, quy hoạch điều chỉnh này sẽ là kim chỉ nam giúp Việt Nam hiện thực hóa tầm nhìn trở thành quốc gia phát triển, thịnh vượng vào năm 2050.